"Biểu tượng "Vạn" của Phật giáo" - Nghiên cứu Phật học và Phật hoàng Trần Nhân Tông (LIC)
Authors: Nguyễn, Văn Thoàn
Chữ vạn là một trong 32
tướng tốt của đức Phật. Đây là biểu thị công đức của Phật. Sở dĩ nó ứng
hiện ở nơi ngực của Phật là để nói lên cái ý nghĩa giác ngộ vẹn toàn của Phật.
Ở chính giữa ngực là tượng trưng cho lý Trung Đạo, không kẹt hai bên, vượt
ngoài đối đãi.
Về ý nghĩa của nó, theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang
giải thích, thì nó có nghĩa là cát tường hải vân hay cát tường hỷ toàn. Còn về
chiều xoay bên phải, bên trái không đồng nhứt, thì cũng theo Từ Điển Phật Học
Huệ Quang giải thích như sau:
“ Hình chữ Vạn,(xin vẽ chữ vạn có chiều trên xoay
về bên trái vào đây) vốn là dấu hiệu biểu thị sự tốt lành ở Ấn Độ thời xưa.
Ngoài Ấn Độ thì Ba Tư, Hy Lạp đều có phù hiệu này, thông thường được xem là
tượng trưng cho mặt trời, ánh chớp, lửa, nước chảy.
Ở Ấn Độ thời xưa, Phật giáo, Bà La Môn giáo, Kỳ na
giáo, đều sử dụng chữ nầy. Đầu tiên, người Ấn Độ cho rằng phù hiệu này là sợi
lông xoắn ở ngực của Phạm thiên, Tỳ thấp nô (Phạn: Visnu), cát lật sắt noa
(Phạn: Krsna) và thông thường coi đây là dấu hiệu của sự tốt lành, thanh tịnh,
tròn đầy. Trong Phật giáo, chữ Vạn (chiều
trên xoay về bên trái) là tướng tốt lành ở trước ngực của Phật và hàng Bồ tát
Thập Địa, về sau dần dần trở thành dấu hiệu đại biểu cho Phật giáo.
Xưa nay có nhiều thuyết
nói về chữ vạn. Về Hán
dịch chữ vạn, Cưu ma la thập và Huyền Trang dịch là chữ "Đức", Ngài Bồ
đề lưu chi thì dịch
là chữ Vạn, biểu thị ý nghĩa công đức tràn đầy. Còn trong Tống Cao Tăng
Truyện
3 thì cho rằng nếu chữ Vạn (chiều trên xoay về bên trái) mà dịch là vạn
thì
chẳng phải dịch ý mà là dịch âm. Nhưng âm của chữ Srivatsalaksana ban
đầu không
được đưa vào Kinh truyện, đến năm 639 thời Võ Tắc Thiên mới đặt ra chữ
này, đọc
là vạn và cho rằng chữ này có ý nghĩa là nơi nhóm hợp của muôn điều tốt
lành.
Nhưng chữ Vạn (chiều trên bên trái) vốn là một ký hiệu chứ chẳng phải là
một
chữ. Sở dĩ xưa nay đọc liền là vạn tự một mặt là do tập quán, chủ yếu
nhất là
do lầm lẫn khi dịch từ tiếng Phạn sang Hán. Vì chữ Phạn Laksana, dịch âm
là Lạc
sát nẳng, nghĩa là tướng; mặt khác chữ Phạn aksara dịch âm là Ác sát la,
nghĩa là tự. Có lẽ 2 âm Laksana và aksara gần giống nhau cho nên ý
nghĩa của chúng bị
lẫn lộn. Nói theo đây thì chữ Vạn (chiều trên bên trái) tự nên đọc là
tướng,
(vạn tướng) mới phù hợp với nghĩa gốc của chữ Phạn...
Mời các bạn tham khảo bài viết tại đường link: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19071
Nhận xét
Đăng nhận xét